07/04/2024 -

Đời sống Kitô hữu

1366
Phẩm giá con người dù mang tính vĩnh cửu, nhưng nó phải được bộc lộ trong đời sống để tôn vinh Đấng là nguồn mạch của phẩm giá đó. Quả thật, Thiên Chúa ban cho con người nhiều cách thức để làm triển nở phẩm giá của họ và một trong những con đường để nhân phẩm ấy được bày tỏ cách tuyệt vời nhất đó là bước theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người hầu “phẩm giá của một nhân vị được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh”[1]. Đức Kitô, qua việc mạc khải cho con người biết về mầu nhiệm của Chúa Cha và tình yêu của Người, đã tỏ lộ cách đầy đủ cho con người biết về căn tính, phẩm giá và ơn gọi cao cả của họ khi được tạo dựng nên trong thế giới này.[2] Thực tế, con người mang trong mình hình ảnh thần linh và “hình ảnh đó rực sáng trong sự hiệp thông của các nhân vị, giống như sự duy nhất giữa các Ngôi Vị thần linh với nhau”[3]. Đó là lý do tại sao con người là thụ tạo duy nhất nơi trần thế được Thiên Chúa dựng nên vì chính nó và con người chỉ có thể gặp thấy bản thân mình cách đích thực nhờ thực hành hiến dâng bản thân.[4]
 
Trong bài viết này, chúng tôi xin gửi đến quý độc giả một vài suy tư và chiêm niệm của chúng tôi về mẫu gương Đức Maria. Quả thật, cuộc đời của ngài đã được làm cho trở nên trọn vẹn là đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh thiện, nhờ thực hành đời sống đức tin trong vâng phục.


ĐỨC MARIA TRONG CHỨC PHẬN LÀM KITÔ HỮU
 
1. Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng
 
Trước hết, người ta phải cảm thấy hạnh phúc vì được làm người, vì con người “là trung tâm và là tột đỉnh của mọi sinh vật trên địa cầu” (Gaudium et Spes, 12) và “được Thiên Chúa dựng nên để làm đối tượng tình yêu của Người” (Splendor Veritatis, 13). Con người mang trên mình phẩm giá quý trọng trổi vượt muôn loài vật, vì chỉ có con người mới “giống Thiên Chúa”, mang hình ảnh Thiên Chúa. Dù xét về thân phận của mình, con người chỉ là thân cát bụi đớn hèn nay sống mai chết, nhưng lại được “Người đoái thương nhìn tới”. Tuy nhiên, điều này không phải chúng ta luôn biết, luôn ý thức để mà vui sướng và vui sống. Những người nhận ra và có được sự tỉnh thức luôn luôn để sống trong tâm tình biết ơn và tạ ơn vì được hiện hữu là người, trước hết, đó là Đức Maria.
 
Cuộc đời của Đức Maria là một hành trình sống thực hành và đón nhận các mối phúc. Thật vậy, trung tâm lời rao giảng của Đức Giêsu là các mối phúc. Chúng diễn tả ơn gọi, con đường và lối sống của người Kitô hữu “chúng là những lời hứa nghịch lý, nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân […]; chúng đã được khởi đầu trong đời sống của Đức Trinh Nữ Maria và của tất cả các Thánh”[5].
 
Quả thật, Đức Maria nhờ “suy đi ngẫm lại trong lòng” mà biết được rằng “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao trọng”. Càng ngẫm nghĩ, ngài càng thấy hớn hở mừng vui và đó là niềm vui đích thực. Niềm vui này có sức tỏa lan lớn lao “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1,41). Niềm vui vượt quá những gì thuộc con người, đó là niềm vui Thánh Thần. Hay nói đúng hơn, niềm vui mang Thần Khí. Do đó, người mang niềm vui Thần Khí cũng sẽ làm cho rung động, làm cho vui sướng những ai mà họ gặp gỡ. Có thể nói, đây là niềm vui của sự sống. Niềm vui này đụng chạm đến tất cả những gì là sâu kín nhất nơi con người để thánh hóa, chữa lành, và kiện toàn “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên”. Đức Maria không tự nhận mình là người “đầy ân sủng”, nhưng được Sứ thần cho biết điều đó“Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).
 
Khi con người biết mình thực sự là ai, căn tính của mình là gì, họ sẽ cố gắng sống thế nào cho xứng hợp. Như thế, nhận biết Thiên Chúa, trước hết, mạng lại con người một định nghĩa đích thực về mình. Định nghĩa này định hình nên lối sống, hay nói cách khác, làm cho con người nhận ra ý nghĩa đích thực của kiếp người là gì. Người ta sống không chỉ để mà sống, nhưng là sống để làm gì, vì cái gì và cho cái gì. Trái ngược với loài người, con vật sống chỉ để sống theo bản năng và nó cũng không biết nó đang sống. Nó sống theo bản năng, do đó, hễ ai đụng đến sự sống của nó, thì tức khắc nó sẽ phản ứng chống trả cách quyết liệt. Trong khi đó, con người nhận biết sự sống là quý giá nhất cần phải bảo vệ, tuy nhiên, họ không phải lúc nào cũng tìm cách chống trả quyết liệt để giành lấy sự sống. Thật vậy, có nhiều người đã tự nguyện hy sinh mạng sống - thứ quý giá nhất của kiếp người - để cho/ vì một ý nghĩa nào đó. Chỉ có con người mới dám hy sinh, dám cho đi thứ quý giá nhất của mình để bảo toàn hoặc làm chứng cho một giá trị, một kho tàng nào đó.
 
Trước mọi vấn đề, con người luôn chấn vấn “Lời chào như vậy có nghĩa gì?” hay điều đó nghĩa là gì? Cho nên chỉ con người trong thế giới vật chất này mới nhận ra ý nghĩa sự sống thì còn quan trọng hơn cả sự sống, nhờ nhận biết về sự thật nơi chính mình. Đức Maria khi được biết sự thật nơi chính mình “Thiên Chúa ở cùng Bà” thì ngài vừa vui sướng vừa xao xuyến. Thật vậy, nhận ra một điều lớn lao nơi chính mình và nhận ra một kế hoạch cao vời vượt cả trí tưởng tượng của mình, con người ta vừa thấy vinh dự vui sướng, vừa sợ hãi, lại vừa nao lòng.
 
  1. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 30-33).

Kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Đức Maria vượt quá trí tưởng tượng của Bà, vì Bà chưa một lần nghĩ tới điều đó. Quả thật, nếu Thiên Chúa ban cho Bà một người con “được gọi là Con Đấng Tối Cao” và “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” thì chắc chắn Bà cũng sẽ nên cao trọng và cũng hiển trị với Người Con của mình tới vô cùng vô tận, vì Thiên Chúa không thể nào ban một điều cao trọng cho một người bất xứng và càng không thể nào để cho người con hiển trị vô cùng tận, trong khi, mẹ của người lại phải chết đi và tan biến vào hư không. Cho nên, sau khi nhận biết được ý nghĩa cuộc đời, nhận biết được sứ mạng làm người của mình, Bà đã vui sướng cất lên “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48). Niềm vui này đến từ Đấng Toàn Năng, Người mới là Đấng khởi sự và kết thúc kế hoạch nơi cuộc đời con người, “đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,49).
 
2. Đức Chúa ở cùng bà
 
“Ở đâu có người Kitô hữu ở đó có niềm vui” đây chắc chắn không phải là một lời khẳng định về sự tự mãn, tự kiêu về việc mình hơn người khác vì mình là người Kitô hữu [nên tốt lành hơn, thánh thiện hơn, cao trọng hơn người…]. Nhiều người, trong thực tế, nghĩ rằng mình là người Kitô hữu nên mình vui vì “hơn người”. Lối nghĩ như vậy, tất nhiên, là sai lầm. Vậy phải hiểu câu “ở đâu có người Kitô hữu ở đó có niềm vui” như thế nào?
 
Có lẽ, điều trên chỉ đúng khi ta đặt câu này trong bối cảnh về niềm hy vọng và niềm tin. Chắc hẳn, một mặt, càng là người Kitô hữu, người ta càng thấy sự bất lực của mình trước những vấn nạn của cuộc đời, trước ngay cả yếu đuối của bản thân mình. Thế nhưng mặt khác, càng là Kitô hữu, người ta lại càng cảm thấy sự khẩn thiết và quan trọng của sự phó thác.
 
Thực tế, khi biết được giới hạn của mình, khi chấp nhận về một thực tế “kẻ mọn hèn” nơi mình, thì “Chúa đoái thương nhìn đến”. Khi chấp nhận sự thật về mình thì cũng đồng thời người ta dễ dàng nương tựa vào Đấng Toàn năng. Khi biết rằng mình không thể làm hơn được nữa, thì người ta cũng dễ dàng để “Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, nghĩa là để Chúa thực hiện những gì tốt đẹp Người muốn. Nghĩa là tất cả những gì người Kitô hữu có được là do Chúa ban nhưng không. Vì thế, “diễm phúc” của người Kitô hữu, chắc chắn không phải là ảo tưởng về bản thân mình, nhưng là nhận biết và tin tưởng rằng “được Chúa đoái thương nhìn tới” mà “làm cho tôi biết bao điều cao trọng”, vì Thiên Chúa “hằng thương xót những ai kính sợ Người”[6]. Như vậy, khi để Thiên Chúa hành động thì đồng thời người ta cũng được “sinh ra” cách mới mẻ nhờ thần khí. Người ta vui sướng vì biết mình được yêu, được chấp nhận và được cứu độ, dù bản thân còn nhiều khiếm khuyết và hoàn toàn bất xứng.
 
Như thế, nếu có một lý do để mà tự hào thì chắc chắn người ta không thể tự hào về “công trạng” của mình, vì thực tế mình chẳng làm được gì; nhưng là tự hào về công trạng của Đấng đã chết và phục sinh vì yêu thương mỗi một người chúng ta. Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui nhận ra mình được yêu thương và được cứu độ trong khi mình hoàn toàn bất xứng. Niềm vui này, do đó, thôi thúc người ta sống ngày càng quyết liệt hơn, muốn vươn lên hơn nữa trong đời sống thường ngày. Đó là lý do người ta vui sướng khi thấy mình thật có phúc “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45) và người ta cũng là người có phúc muôn đời, cái phúc đời đời chứ không phải chỉ là tạm thời “từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48).
 
Khi suy niệm về lời chúc tụng Manificat, người ta cũng đồng thời được mời gọi noi gương Đức Maria để sống tinh thần phó thác và vâng phục Thiên Chúa. Sống niềm vui của ơn gọi làm người Kitô hữu, như Đức Maria thể hiện, không phải là thực hiện những gì Bà muốn, nhưng thật ra, đó là đảm nhận lấy một chuỗi cuộc đời đầy đòi hỏi đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Maria đã sống ơn gọi có Chúa ở cùng bằng cách trở nên người nhà của Thiên Chúa để Người cậy nhờ và để Người “làm phiền” đến đau đớn tột cùng khi đứng dưới cậy thập giá chứng kiến người con yêu dấu của Bà chết cách nhục nhã.
 
Ơn gọi của người Kitô hữu, như thế, là một lời đáp trả sâu xa mang lại sức mạnh cho người ta để họ đi vào cuộc khổ giá cùng với Đức Giêsu qua việc đánh mất hết những gì thuộc về mình hầu có thể sống liên lụy với con người trần thế đặc biệt với những người cùng khổ để rồi cùng nhau được hưởng ơn cứu độ. Không có niềm vui tin tưởng và hy vọng, người ta không thể làm được. Với niềm vui sống là người Kitô hữu, người ta sẽ cảm thấy không có gì trở nên nặng nề, cực nhọc. Hay nói cách khác, càng cảm nếm được niềm vui ấy lớn lao bao nhiêu, người ta càng phải đi vào một cuộc “đảo ngược” bấy nhiêu - chịu nhiều phiền toái, bách hại - để trở nên lớn mạnh và vĩnh cửu.[7]
 
Cuộc đời con người vẫn cứ luôn còn đó những đau khổ, nhọc nhằn, vất vả; vẫn cứ còn đó bao vấn nạn về sự dữ, bạo lực và bế tắc. Do đó, người Kitô hữu không phải lúc nào cũng có thể “tươi như hoa”, “vui như tết” được, nhưng rõ ràng những con người ấy luôn sẵn lòng mở ra với niềm hy vọng. Khổ đau có thể cứ “dội” xuống trên cuộc đời họ, nhưng tự thâm tâm, họ vẫn luôn tín thác vào Đấng đã chết và phục sinh đã mang niềm vui đến cho con người. Đó là niềm vui sâu xa, ý nghĩa và chân thực nhất của kẻ bước theo Đức Kitô.
 
3. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ
 
Trong một thế giới mà người ta muốn thể hiện cái tôi ra để trấn áp thiên hạ, để thiên hạ sợ hãi mà nghe theo, thì Đức Maria lại chọn con người chịu thua. Chịu thua để làm gì?
 
Trước hết, chịu thua để đón nhận “xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chịu thua ở đây không hiểu theo nghĩa sự hơn thua, nhưng là sự chấp nhận và tin tưởng về một sự “mịt mờ” vượt quá trí hiểu để trong đức tin tôi bước đi. Thật ra, tôi bước đi không phải do kém hiểu biết, nhưng do tôi chắc tâm về Đấng đã lên kế hoạch cho tôi. Cho nên tôi bước đi với thâm tâm “tôi đây là nữ tỳ của Chúa” vậy thì “xin Chúa cứ làm” Quả là một sự liều lĩnh xét về mặt con người khi nói “xin Chúa cứ làm”. Nhưng sự liều lĩnh này có cơ sở bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem đến cho cuộc đời tôi một ý nghĩa bất ngờ “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao trọng”. Quả thật, chỉ có Thiên Chúa mới có thể tiêu diệt những gì là hỗn loạn, những chi là đảo điên và hư vô mà có thể làm cho tôi mất sự hiện hữu “dẹp tan phường lòng trí kiêu căng”, “hạ bệ những ai quyền thế” để làm một cuộc đảo ngược “nâng cao kẻ khiêm nhường”; “kẻ đói nghèo được ban dư đầy”. Chính Thiên Chúa ra tay làm cho đời sống con người trở nên phong phú, đáng sống và viên mãn “từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
 
Niềm vui tràn đầy nơi cung lòng kẻ yếu hèn khi người đó đặt sự “thèm muốn” của mình đúng nơi chốn của nó. Thay vì thèm muốn chứng tỏ cái tôi, phải ăn thua với tha nhân mà thể hiện ra là “phường lòng trí kiêu căng” cho mình là hơn người, là tuyệt đối, là nhất; thì Thiên Chúa lại muốn con người “thèm muốn” - Một Đấng Khác - nghe theo lời Người để trở thành kẻ yếu, kẻ thua trước chính mình, đó là chấp nhận trên tôi còn có một ai khác tuyệt đối - toàn năng. Nếu tôi chấp nhận phụ thuộc vào Một-Ai- Khác-Toàn-Năng đó thì tôi sẽ được “nâng cao”. Cũng vậy, nếu tôi chỉ thèm muốn sự vật “quyền thế” thì sẽ bị hạ xuống, thèm muốn “giàu sang” thì sẽ bị “đuổi về tay trắng”; nhưng nếu đặt sự thèm muốn vào Một-Đấng-Khác thì sẽ được “ban của đầy dư”. Sự “dư đầy” ở đây chính là niềm vui được hiện hữu là người đích thực. Ngay khi bà Êlisabét nghe tiếng chào thì niềm vui đã trào vọt lên trong lòng bà “tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1,44).
 
Sự thèm muốn được diễn tả nơi bà Êlisabét chính là khát vọng làm người nơi mỗi chúng ta. Chúng ta khát vọng được đầy tràn thần khí Chúa. Chúng ta khát mong Thần Khí làm đầy tràn khoảng trống bao la trong tầm hồn. Chính khoảng không trống rỗng mà ai cũng kinh nghiệm ấy nhiều khi làm chúng ta sợ hãi, hoang mang và lo lắng. Vì thế, không ít người đã lấp đầy nó bằng quyền bính và tiền của. Thế nhưng, thực tế thật trớ trêu, càng tìm cách lấp đầy nó bằng vật chất, người ta càng đi vào hụt hẫng, lo sợ và khủng hoảng. Điều này dẫn con người đến sự hỗn loạn và ôm lấy sự hỗn độn.
 
Vì thế, ngay từ câu mở đầu Thiên sứ đã nói “Mừng vui lên”, nghĩa là vui sướng lên, hân hoan lên, sướng vui lên vì bà được trở nên là “Đấng đầy ân sủng” khi “thèm khát” Đức Chúa luôn luôn và điều này đã được làm cho hiện thực “Đức Chúa ở cùng Bà”.
 
Đức Maria đã chịu thua "toàn tập" trước Đấng Toàn Năng, nghĩa là buông bỏ triệt để cái tôi muốn, cái tôi sẽ, để đón nhận cái Người muốn và Người sẽ làm; do đó, Bà được làm cho tràn đầy ân sủng và trở nên “có phúc lạ hơn mọi người nữ”, nghĩa là, trở nên Một-Thụ-Tạo-Kiều-Diễm, mà Vô-Nhiễm-Nguyên-Tội là thể hiện ra cái vẻ huy hoàng lộng lẫy ấy. Cái phúc mà Đức Maria có được chung quy lại là vì có Đức Chúa ở cùng.
 
Kết luận
 
Trong chữ “làm Kitô hữu”, ta thấy có hai yếu tố “làm người” và làm “Kitô hữu”. Quả thật, trước khi là Kitô hữu, người ta đã là người, một con người trọn vẹn với phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ khi mới tượng thai trong lòng mẹ. Tuy nhiên, để cho hình ảnh thần linh được mang lấy vẻ đẹp nguyên thủy của nó và được nên cao trọng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, người ta được mời gọi chọn lấy hành trình “làm người” trong Đức Kitô, nghĩa là sống làm người trong ơn gọi Kitô hữu theo mẫu gương Đức Maria và thánh Giuse, những người đã chấp nhận bước vào tương quan mật thiết với Chúa nhờ ân sủng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong ý hướng đó, người ta mới “trở nên thụ tạo mới” - được ban ơn thánh hóa, ơn công chính hóa - “làm cho có khả năng sống và hành động theo sự tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân của Chúa Thánh Thần”[8] trong các hoạt động nơi môi trường sống và làm việc của mình. Điều này nghĩa là sống làm người Kitô hữu ngay tại nơi người ta sinh ra, ngay trong công việc mà họ chọn lựa và với những con người cụ thể xung quanh. Đó là ôm giấc mộng đem lời vào trần thế, là hy sinh và phục vụ tha nhân, can đảm làm chứng và yêu thương đến cùng.
 
Thành Zi, “Phẩm Giá Con Người và Ơn Gọi Làm Kitô Hữu” trong Thông Tin Nhà Học, số 67 (Tháng 5/2021), tr. 21-26.

[1] GLHTCG, 1700.
[2] X. CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, 22.
[3] GLHTCG, 1702.
[4] X. CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, 24.
[5] GLHTCG, 1717.
[6] Về vấn đề Kính Sợ Thiên Chúa, xin đọc bài đã viết: Khôn Ngoan và Khờ dại theo sách Châm Ngôn.
[7] Xin đọc thêm bài: Đáp lời mời gọi theo sách Ngôn sứ Giêrêmia.
[8] GLHTCG, 1266.
114.864864865135.135135135250