18/12/2023 -

Lời Thiên Chúa

551

Công đồng Giêrusalem
Fr. Timothy Radcliffe, OP.

Tham gia, quản trị và quyền bính: Những tiến trình, cấu trúc và thể chế nào là cần thiết trong một Giáo hội truyền giáo có tính đồng nghị?
Thánh Luca, vị thánh chúng ta mừng lễ hôm nay, kể cho chúng ta trong chương 15 sách Công vụ Tông đồ về cái gọi là Công đồng Giêrusalem, được triệu tập để đương đầu với cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của Hội thánh sau Lễ Ngũ Tuần. Hội thánh bị rạn nứt nặng nề. Trước hết, giữa Hội thánh Giêrusalem và Phaolô, với Tin Mừng của ngài về việc miễn trừ cho dân ngoại khỏi luật cắt bì của người Do thái; rồi trong lòng Hội thánh Giêrusalem, những người Pharisêu cải đạo bị tách khỏi những người còn lại, và chính các Tông đồ, dưới sự lãnh đạo của Phêrô, có lẽ cũng bị chia rẽ với 'các kỳ mục’, là những người hướng về Giacôbê, người anh em của Chúa. Vì thế, Hội thánh lúc đó phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về căn tính vượt xa những gì chúng ta có thể tưởng tượng ngày nay.
Tại Lisbon mùa hè này, Đức thánh cha Phanxicô đã nói, ‘một cuộc sống không có khủng hoảng là một cuộc sống được tiệt trùng… một cuộc sống không có khủng hoảng thì giống như nước ao tù, nó không có ích gì, và cũng chẳng có mùi vị gì.’58 Chúng ta trưởng thành qua những cơn khủng hoảng, từ cơn khủng hoảng khi chào đời cho đến cơn khủng hoảng khi đối diện với cái chết. Nếu biết đón nhận những khủng hoảng với niềm hy vọng, chúng ta sẽ phát triển. Còn nếu cố tránh né, chúng ta sẽ không thể trưởng thành. Mấy anh em cùng Dòng người Mỹ đã tặng tôi một chiếc áo T-Shirt với dòng chữ: 'Chúc một cuộc khủng hoảng tốt đẹp!'
Chúng ta đọc thấy rằng: ‘Các Tông đồ và kỳ mục bèn họp nhau để xem xét vụ này (Cv 15, 6). Hội thánh luôn được quy tụ, như chúng ta đang ở trong Thượng Hội đồng hôm nay. Trong Kinh nguyện Thánh Thể III, chúng ta đọc rằng: ‘Chúa không ngừng quy tụ một dân riêng, để từ đông sang tây họ dâng lên Chúa một hiến lễ tinh tuyền.’ Trong tiếng Hy Lạp, từ chỉ Hội thánh, ekklesia, có nghĩa là “quy tụ”. Chúng ta có sẵn lòng quy tụ lại với nhau, không chỉ về thể lý, mà với cả con tim và khối óc của chúng ta? Nhìn về thành Giêrusalem trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nói: ‘Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp đàn gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Lc 13, 34). Chúng ta có sẵn lòng để được kéo ra khỏi sự nghi ngờ và thiếu hiểu biết về nhau? Hay chúng ta sẽ giống như người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng cứ đứng bên ngoài, không chịu quy tụ trong niềm vui, mừng đứa em mình trở về?
Các môn đệ quy tụ tại Giêrusalem để rồi được sai đi Antiôkhia và toàn thế giới. Chúng ta được quy tụ trong Bí tích Thánh Thể cũng là để được sai đi. Đây là hơi thở của Chúa Thánh Thần trong buồng phổi của chúng ta, tập hợp chúng ta lại và sai chúng ta đi, cung cấp oxy cho dòng máu sự sống của Hội thánh. Chúng ta được quy tụ lại để khám phá sự bình an với nhau và được sai đi loan báo bình an đó cho thế giới đáng thương này, một thế giới bị đóng đinh bởi bạo lực ngày càng gia tăng, như ở Ukraine, Thánh địa, Myanmar, Sudan, và rất nhiều nơi khác. Làm sao chúng ta có thể là dấu chỉ bình an nếu chúng ta cũng đang chia rẽ nhau?
Công đồng Giêrusalem quy tụ ‘nhân danh Chúa Giêsu’, chúng ta cũng vậy. Trong Thượng Hội đồng, chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: ‘Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con hiện diện trước nhan Ngài khi chúng con tụ họp nhân danh Chúa.’ Tụ họp nhân danh Chúa có nghĩa là tin tưởng chắc chắn rằng ân sủng của Thiên Chúa đang hoạt động mạnh mẽ trong chúng ta. Thánh Phêrô nói với người què ở cổng Đền Thờ: ‘Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Người ta thường nói với tôi: ‘Thượng Hội đồng này sẽ không thay đổi bất cứ điều gì.’  Một  số thì hy vọng và một số thì sợ hãi. Đó là sự thiếu niềm tin vào danh Chúa, ‘danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu’ (Pl 2, 9). Một bài thánh ca cổ mở đầu, ‘Hôm nay tôi buộc chặt mình vào danh quyền uy của Chúa Ba Ngôi.’ Nếu chúng ta được quy tụ nhân danh uy quyền của Chúa Ba Ngôi, Hội thánh sẽ được đổi mới, mặc dù có thể theo những cách thức không rõ ràng ngay trước mắt. Đây không phải là sự lạc quan mà là đức tin Tông truyền của chúng ta.
Người thầy vĩ đại đầu tiên của tôi là Cornelius Ernst, một tu sĩ Đa Minh người Sri Lanka. Thầy đã viết về sức mạnh đổi mới của ân sủng Thiên Chúa. Tôi xin trích dẫn: 'Đó là bình minh, sự khám phá, mùa xuân, sự tái sinh, việc đến với ánh sáng, sự thức tỉnh, siêu việt, giải thoát, xuất thần, sự ưng thuận của cô dâu, quà tặng, sự tha thứ, hòa giải, cách mạng, đức tin, đức cậy, đức mến…. đó là sức mạnh biến đổi và đổi mới mọi sự: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5)’59 Hội thánh luôn luôn mới mẻ, giống như Thiên Chúa, Đấng vừa Cổ kính vừa là Hài nhi mới sinh.
Các môn đệ quy tụ lại vì họ thấy Thiên Chúa đã và đang làm điều gì đó mới mẻ. Thiên Chúa đã đi trước họ. Họ phải bắt kịp Chúa Thánh Thần. Thánh Phêrô tuyên bố rằng ‘Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can đã chứng tỏ Người chấp  nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ’ (Cv 15, 8-9).
Chắc chắn đây là điều khó chấp nhận nhất đối với thánh Giacôbê, người anh em của Chúa. Căn tính của ngài được thiết lập trên mối quan hệ huyết thống với Chúa Giêsu. Thật tuyệt vời khi chính Giacôbê lại là người công bố căn tính mới này: ‘Thánh Thần và chúng tôi.’ Phải có lòng can đảm và lòng tin mạnh mẽ thế nào để có thể nói ‘chúng tôi’, một căn tính quy tụ tất cả mọi người trong Hội thánh đang bị chia rẽ. Lúc này, Giacôbê vẫn gọi Phêrô bằng tên cũ là ‘Simon.’ Ông nhận thức căn tính mới này rất chậm chạp, một Hội thánh gồm cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Chúng ta cũng vậy, cần phải có thời gian.
Trong cuộc nội chiến ở Burundi, tôi đi khắp đất nước cùng với hai anh em trong Dòng, một người Hutu và một người Tutsi. Tối đến, ba người chúng tôi cùng nhau cử hành Thánh Lễ. Một người Anh và hai người châu Phi, một người Hutu và một người Tutsi: đây thực sự là một cảm thức mới về ‘chúng tôi’. Chúng tôi nhận thức được điều này trong Thánh Lễ trước khi chúng tôi nắm bắt được nó trong tâm trí và trái tim mình.
Ngày nay, Thiên Chúa của chúng ta đã cho xuất hiện một Hội thánh không còn chủ yếu thuộc Tây phương: một Hội thánh thuộc Công giáo Đông phương, châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Đó là một Hội thánh trong đó phụ nữ đang dần đảm nhận trách nhiệm, canh tân thần học và linh đạo của chúng ta. Những người trẻ trên khắp thế giới, như chúng ta thấy ở Lisbon, đang đưa chúng ta đi theo những hướng đi mới, vào Lục địa Kỹ thuật số. Trong kinh Tiền tụng lễ các thánh Nam Nữ, chúng ta tạ ơn Chúa vì ‘Chúa dùng đời sống đức tin kỳ diệu của các thánh như một năng lực luôn luôn mới mà làm cho Hội thánh nên phong phú.’ Các vị thánh ấy đang ở giữa chúng ta. Ngay lập tức, một câu hỏi xuất hiện: Chúng ta sẽ làm gì? Một câu hỏi thậm chí còn cơ bản hơn nữa là: Thiên Chúa đang làm gì vậy? Chúng ta có chấp nhận sự mới mẻ đầy ân sủng của Thiên Chúa không? Anh chị em có tin được không, một số tu sĩ Đa Minh thậm chí còn chống đối Thánh Ignatiô Loyola! Lỗi tại chúng tôi mọi đàng - Nostra culpa.
Điều thú vị là, Giacôbê chỉ hiểu cái mới như là sự xây dựng lại cái cũ. Ngài trích dẫn ngôn sứ Amốt: ‘Sau đó, Ta sẽ trở lại, và sẽ tái thiết lều Đavít đã sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta  sẽ tái thiết,  và Ta sẽ dựng lại lều ấy. Như vậy các người còn lại sẽ tìm kiếm Chúa, cùng với tất cả các dân ngoại được mang danh Ta.' (Cv 15,16-17). Cái mới luôn là sự đổi mới bất ngờ của cái cũ. Đây là lý do tại sao bất kỳ sự đối lập nào giữa truyền thống và tiến bộ đều hoàn toàn xa lạ với Công giáo.
Giờ đây, chúng ta sẽ cân nhắc xem cần có những tiến trình, thể chế và cơ cấu mới nào. Đây sẽ không phải là giải pháp cho các vấn đề quản lý mà là sự thể hiện trọn vẹn hơn căn tính của chúng ta. Lịch sử Hội thánh là sự sáng tạo không ngừng các thể chế. Sau khi Kitô giáo trở thành một tôn giáo được Đế quốc Rôma công nhận, những dạng thức mới của đời sống Kitô giáo đã xuất hiện nơi các giáo phụ và giáo mẫu trong sa mạc, để đối trọng với những mối nguy hiểm mới về sự giàu có. Vào thế kỷ XIII, các trường đại học mới xuất hiện để duy trì một tầm nhìn mới về căn tính con người. Trong thời Cách mạng Công nghiệp, hàng trăm dạng thức mới của đời sống tu trì đã ra đời, nhằm diễn tả căn tính của chúng ta là anh chị em của những người nghèo nơi các đô thị mới.
Chúng ta cần những thể chế nào để thể hiện căn tính của mình với tư cách là những người nam, nữ của hòa bình trong thời đại của bạo lực, của những cư dân Lục địa Kỹ thuật số? Mỗi người đã lãnh phép Rửa đều là một ngôn sứ. Làm thế nào chúng ta nhận ra và đảm nhận vai trò của ngôn sứ trong Hội thánh ngày nay?60 Còn tiếng nói ngôn sứ của phụ nữ thì sao, họ vốn thường bị coi là ‘khách trong chính ngôi nhà của họ’? 61
Sau cùng, Công đồng Giêrusalem đã dỡ bỏ những gánh nặng không cần thiết khỏi dân ngoại. “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không  đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này” (15,28). Họ được giải phóng khỏi căn tính do Luật cũ mang lại.
Ngày nay, làm sao trút được gánh nặng khỏi đôi vai mỏi mệt của anh chị em chúng ta, những người thường cảm thấy không thoải mái trong Hội thánh? Chắc chắn là không phải bằng những điều kịch tính như bãi bỏ Lề Luật. Và chắc chắn cũng không phải bằng một sự thay đổi nền tảng về căn tính của chúng ta giống như việc tiếp nhận Dân ngoại.
Nhưng chúng ta được kêu gọi để ý thức sâu sắc hơn về căn tính của mình với tư cách là những người bạn không ngờ tới được của Đức Chúa, Đấng có tình bạn đầy tai tiếng, vượt qua mọi ranh giới. Nhiều người trong chúng ta đã khóc khi nghe tin một cô gái trẻ tự tử vì cô là người lưỡng tính và cảm thấy không được chào đón. Tôi hy vọng điều này khiến chúng ta thay đổi. Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta rằng mọi người đều được chào đón: todos, todos, todos - tất cả, tất cả, tất cả.
Một người đàn ông bị lạc ở Ireland. Anh ấy hỏi một người nông dân, ‘Làm cách nào để đến Dublin?’ Người nông dân trả lời: ‘Nếu tôi muốn đến Dublin, tôi sẽ không bắt đầu ở đây.’ Nhưng dù người ta ở đâu, thì đó cũng là nơi để bắt đầu cuộc hành trình về nhà, ngôi nhà Hội thánh và ngôi nhà của Nước Chúa.

 
58 Responding to  questions  of  young  people,  World Youth Day.
59 The Theology of Grace Dublin 1974, p. 74f.
60 Massimo Faggioli ‘Notes on Propheyc and Eccelsiology and Synodality from the Second Vatican Council to  Today.’ Irish Theological Quarterly 1 – 15. 2023.
61 Carmel McEnroy, Guests in Their Own House: The Women of Vatican II, Crossroad, New York, 2011.
 

114.864864865135.135135135250